Toạ đàm: “Quản lý đường cao tốc theo hình thức hợp đồng O&M”

13/05/2022

Ngày 12/5/2022 tại Hà Nội, Hiệp hội các Nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam (VARSI), Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Uỷ ban Quan hệ đối tác công tư thuộc Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) tổ chức toạ đàm: “Quản lý đường cao tốc theo hình thức hợp đồng kinh doanh - quản lý (O&M)”.

Chương trình toạ đàm được đồng điều hành bởi ông Nguyễn Đức Kiên – Thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, PGS. TS. Trần Chủng - Chủ tịch VARSI và TS. Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VIAC với sự tham dự của đại diện các cơ quan nhà nước, các chuyên gia, ngân hàng, các hiệp hội và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ.

Toàn cảnh chương trình toạ đàm

Phát biểu tại toạ đàm, PGS. TS. Trần Chủng cho biết, theo dự án quy hoạch phát triển đường cao tốc đã được Chính phủ phê duyệt đến năm 2030 - 2035, Việt Nam có khoảng 5.000 km đường bộ cao tốc với tổng mức đầu tư gần 40 tỷ USD.

Đây sẽ là khối bất động sản rất lớn cần phải được quản lý và khai thác tốt mới mang lại hiệu quả đầu tư, nếu không sẽ gây tổn thất vô cùng lớn cho nền kinh tế và cho chính các nhà đầu tư. Tuy nhiên, hiện chưa có khung pháp lý cho quản lý, khai thác các dự án cao tốc do nhà nước đầu tư. Đây là một khoảng trống lớn cần có giải pháp khắc phục càng sớm càng tốt để làm căn cứ quản lý hợp đồng và xử lý các tranh chấp.

Ông đề xuất nhà nước lựa chọn doanh nghiệp O&M có năng lực, có thể giao cho công ty tư nhân đảm nhiệm thu phí, vận hành cao tốc. Đơn vị này không chỉ thu phí chính xác, tránh thất thoát mà còn điều tiết đảm bảo trật tự giao thông, cứu nạn cứu hộ và bảo trì thường xuyên để đường không xuống cấp.

Theo PGS. TS. Trần Chủng, cần có khung pháp lý để quản lý các dự án đường cao tốc do nhà nước đầu tư

Cùng quan điểm với Chủ tịch VARSI, GS. TS. Vũ Đình Phụng, Trưởng khoa Công trình giao thông, Trường ĐH Xây dựng Hà Nội nhận định, điều bất cập hiện nay là chúng ta chưa có được quy trình khác thác đường cao tốc nên trong công tác quản lý đường cao tốc còn gặp rất nhiều khó khăn. Đến năm 2030, Việt Nam có tổng số đường cao tốc 5.138 km. Như vậy, chỉ còn 8 năm nữa, thời gian rất ngắn để hoàn thiện nhiệm vụ lớn này

Cũng tại toạ đàm, TS. Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh, trong điều kiện ngân sách nhà nước khó khăn, việc huy động các nguồn vốn xã hội cho đầu tư phát triển giao thông giữ vai trò quan trọng và việc đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) mang đến nhiều kỳ vọng. "PPP là một chính sách giúp chúng ta đạt cả 2 mục tiêu đó là giảm gánh nặng cho Nhà nước và tạo cơ hội cho phát triển kinh tế tư nhân. Nhà nước, người dân và doanh nghiệp cùng có lợi. Có nhiều hình thức PPP để triển khai việc quản lý khai thác bảo trì đường cao tốc, trong đó, có thể áp dụng hình thức hợp đồng O&M ", Chủ tịch VIAC phát biểu.

Theo TS. Vũ Tiến Lộc, nguồn vốn xã hội đóng vai trò quan trọng trong đầu tư phát triển giao thông

TS. Nguyễn Đức Kiên, Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, hiện nay kinh phí bảo trì đường cao tốc vẫn theo định mức cũ, không phù hợp thực tiễn quản lý và cần được điều chỉnh sát thực hơn. Khả năng huy động vốn của phương thức PPP rất rộng mở, Nhà nước và doanh nghiệp khi tham gia vào PPP sẽ là 2 chủ thể bình đẳng trong một hợp đồng kinh tế, có sự tương tác như Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nói: “... nếu rủi ro phải chia sẻ”.

TS. Nguyễn Đức Kiên phát biểu tại toạ đàm

Theo TS. Lê Đỗ Mười, Viện trưởng Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải, nguồn vốn ngân sách lớn đầu tư cho đường cao tốc đặt ra yêu cầu phải có cơ chế thu hồi để hoàn trả ngân sách và tiếp tục tái đầu tư. Để hợp đồng O&M khả thi, cần thời gian thực hiện hợp đồng hợp lý nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính của nhà đầu tư, thời gian khai thác ổn định, phù hợp, đặc biệt là nhà nước cần minh bạch trong lựa chọn doanh nghiệp dự án.

Đề cập mô hình hợp O&M trên thế giới, đại diện Công ty TNHH TAIYU Việt Nam chia sẻ, tại Nhật Bản, cơ sở hạ tầng công cộng có sẵn và đang thu phí vẫn thuộc quyền sở hữu của cơ quan nhà nước, nhưng quyền vận hành, khai thác sẽ được giao cho một đơn vị tư nhân. Các đơn vị được nhận quyền vận hành thực hiện hợp đồng trong khoảng 30 năm, trả tiền một phần cho nhà nước, số còn lại được trả góp. Các công ty đường bộ dùng số tiền này để bù đắp chi phí xây dựng cao tốc trước đó.

Công ty được nhượng quyền có thể tăng lợi nhuận từ kinh doanh trạm dừng nghỉ, tổ chức sự kiện để thu hút phương tiện, giảm chi phí quản lý, bảo trì...

Ông Đoàn Tiến Giang, chuyên gia về PPP của USAID cũng khẳng định mô hình O&M đã được nhiều nước áp dụng. Nhà nước và nhà thầu tư nhân ký kết hợp đồng trong 5 đến 7 năm hoặc 30 năm tùy theo mô hình. Nhà đầu tư có thể không hoặc trả trước phí nhượng quyền.

Từ góc nhìn của một đơn vị có kinh nghiệm gần 20 năm quản lý vận hành công trình hầm giao thông và từ thực tế quản lý khai thác gần 25km hầm giao thông, gần 330km cao tốc và quốc lộ, ông Nguyễn Quang Huy, Tổng Giám đốc Công ty Đầu tư hạ tầng giao thông Đèo Cả cho biết, nhiều bất cập trong đầu tư các dự án cao tốc hiện nay là chưa có khu dừng nghỉ, trạm xăng. Các hạng mục này thường tách riêng do địa phương đầu tư, gây thiếu đồng bộ, khó khăn cho lái xe. Bộ Giao thông vận tải nên bổ sung các khu dừng nghỉ quy mô từ 5 - 10ha/bên, là một cấu phần của cao tốc và tổ chức đấu thầu khai thác.

Bên cạnh đó, đại diện đơn vị này đề nghị cần khắc phục hạn chế về kinh phí cho công tác bảo trì, bảo dưỡng thường xuyên và tổ chức thu phí đường cao tốc, do kinh phí này được tính toán theo cách tính cũ, công nghệ cũ, định mức cũ. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích áp dụng khoa học, công nghệ để đơn vị chủ động đầu tư thiết bị, công nghệ cần có với thời gian khai thác, kinh doanh đủ dài.

Tổng Giám đốc Công ty Đầu tư hạ tầng giao thông Đèo Cả phát biểu tại toạ đàm

Để triển khai hợp đồng O&M trong công tác quản lý, vận hành đường cao tốc thuận lợi, nhiều đại biểu tại toạ đàm cũng nhấn mạnh việc cần có các hướng dẫn cần thiết, trong đó có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật chuyên về quản lý, khai thác đường ô tô cao tốc; cần có các văn bản pháp luật điều chỉnh, đặc biệt là các hướng dẫn chi tiết về những điều khoản chủ yếu trong hợp đồng O&M để cả phía nhà nước và nhà đầu tư tư nhân có thể dựa vào đó cùng thương thảo, xây dựng và tổ chức vận hành những dự án hợp tác hiệu quả.

VP